Đối ngoại Kim Thế Tông

Với Nam Tống

Nhận thấy việc đánh Nam Tống của Hoàn Nhan Lượng là không nên, ngay tháng 12 năm 1161 sau khi Hoàn Nhan Lượng chết, Kim Thế Tông sai Nguyên soái tả giám quân Cao Trung Kiến đến đề xuất bãi binh với Nam Tống. Ông hạ lệnh cho những binh sĩ từng nam chinh thuộc các lộ Hà Bắc, Sơn Đông, Thiểm Tây được giải ngũ về quê[29]. Ông trả lại những vùng lãnh thổ mà Hoàn Nhan Lượng đã chiếm của Nam Tống như các lộ Hà Bắc, Sơn Đông, Thiểm Tây.

Nhưng năm 1162, Tống Hiếu Tông lên ngôi lại chủ trương kháng Kim, bèn bổ nhiệm Trương Tuấn làm tướng vùng Giang Hoài để chống Kim. Kim Thế Tông gấp rút xây dựng lực lượng chống Tống, xây dựng các phòng tuyến để đề phòng sự tấn công từ phía nam. Tháng 5 năm 1162, Nam Tống xuất quân đánh chiếm Túc châu của nước Kim. Kim Thế Tông hạ lệnh phản công nhanh chóng chiếm lại Túc châu.

Trong triều Tống vẫn tiếp tục đấu tranh giữa hai phe chủ chiến và nghị hòa không chấm dứt. Thấy vua Tống vẫn còn ý định gây chiến, để gây sức ép khiến Tống Hiếu Tông phải nghị hòa, Kim Thế Tông quyết định đánh Tống trước. Một mặt, ông sai hữu thừa tướng Bộc Tán Trung Nghĩa làm Đô nguyên soái, thống lĩnh ba quân ở Nam Kinh (Khai Phong, Biện Kinh cũ của Bắc Tống), sai Phó nguyên soái Liệt Chí Ninh đóng quân ở Hoài Dương; mặt khác ông lệnh cho 2 tướng ra đề nghị bên Tống ngừng bắc tiến và cống nạp thì sẽ ngưng chiến.

Liệt Chí Ninh đưa thư cho tướng Tống là Trương Tuấn đề nghị giảng hòa. Trương Tuấn không chịu, ra quân đánh Kim, nhưng bị quân Kim nhanh chóng đánh lui.

Để nghị hòa nhanh chóng đạt kết quả, Kim Thế Tông đồng ý bớt điều kiện, cho vua Tống không phải xưng thần như trước, mà chỉ phải xưng "cháu" (điệt)[30]. Bộc Tán Trung Nghĩa cho thư qua lại với Tống Hiếu Tông 7 lần, vua Tống vẫn chưa dứt khoát. Theo lệnh của Thế Tông, năm 1164, quân Kim vượt sông Hoài, đánh chiếm Vu Thai, Lư châu, Hào châu. Trước thế mạnh của quân Kim, Tống Hiếu Tông sợ hãi sai sứ đến xin giảng hòa.

Đầu năm 1165, Kim Thế Tông chấp nhận hòa ước với Nam Tống. Hai bên thỏa thuận hòa bình, gọi là Hòa ước Long Hưng giữa nhà Kim và nhà Tống, với nội dung chủ yếu là[31]:

  • Biên giới: phía Đông lấy trung du, phía Tây lấy hai châu Đường, Đặng (Hồ Bắc) làm ranh giới. Nam Tống phải trả lại 6 châu Hải, Tứ, Đường, Đặng, Thường, Tần cho Kim
  • Quan hệ: hai nước có quan hệ chú-cháu, Tống Hiếu Tông không phải xưng "thần" nhưng phải xưng "cháu" với Kim Thế Tông
  • Cống nạp: hàng năm Tống phải cống cho Kim 20 vạn lạng bạc và 20 vạn tấm lụa

Từ đó hai nước sống trong hòa bình, suốt 40 năm không xảy ra chiến tranh[26][32].

Với Đại Việt

Sau khi đã có hòa bình với Nam Tống, năm 1168, Kim Thế Tông sai sứ giả vượt qua lãnh thổ Nam Tống đến nước Đại Việt[33][34] và đó cũng là lần duy nhất nhà Kim có quan hệ ngoại giao với Đại Việt[35].

Cùng với sứ nhà Kim, sứ Nam Tống cũng đến Đại Việt lúc đó. Vua Lý Anh Tông sai các quan đón tiếp sứ giả cả hai nước chu đáo nhưng không cho đoàn sứ giả hai nước gặp nhau[33][34][35].